TRIẾT LÝ VIỆT TRONG NỀN VĂN HÓA ẨM
THỰC
Viet-Philosophy in
the Culture of EatingTrần Văn Đoàn
National Taiwan University
Abstract
This following paper attempts to investigate the principles guiding the eating behaviours of the Viet. To the Viet, eating is not a simple act of feeding but a total act of living, i.e. the act of life-giving, life-supporting, and life-enjoying. Thus, the way, form, time, order, social ethiquette of eating and cooking, all reflect not only the culinary culture of the Viet but rather their moral rules, which they ceremoniously and dutifully observe.
The
work consists of two main parts: the first part is an analytical description of
the eating habits and its forms in the Viet-lifeworld while the second part
investigates the principles guiding these habits. Our preliminary investigation
leads to the main principle of life behind them: eating is an encompassing
symbol of human life.
From
the above consideration, our concluding part is a very short and immature
reflection on the meaning of the Eucharistie. In the Viet’s view, the essence of
the Eucharistie, and hence of its message, would be our life itself. By
the very act of sharing bread and wine, i.e. the source and conditions of life,
the Lord wants to remind us of the unique truth and the unique way of life (Ego
sum via, vita et veritas). True life is most authentically expressed in the
total act of living, i.e. life-giving, life-supporting
and life-enjoying.
Key-words:
Viet-Philosophy,
Vietnamese Culture, Culture of Eating, Eucharistie, Viet-Theology.
TRIẾT
LÝ VIỆT TRONG VĂN HÓA ẨM THỰC
VIET-PHILOSOPHY
IN THE CULTURE OF EATINGHội Thảo Thường Niên của Viện Triết Đạo
The Annual Conference of The Vietnamese Institute of Philosophy and Religion
Los Angeles, 08-10 July 2005 và Washington, D.C., 15-17 July 2005
Trần Văn Đoàn ☆
1. Dẫn Nhập
Tiểu
luận này nhắm khơi quật nền tảng của lối tư duy Việt tiềm ẩn trong nền văn hóa
ẩm thực. Cách thế ăn uống, phép tắc ăn uống, cách chế biến thực phẩm, chọn thực
phẩm, vân vân, không chỉ biểu hiện những tác động căn bản thỏa mãn nhu cầu sống
của con người sinh vật mà thôi. Chúng biểu hiện đặc tính, cách thế suy tư, cũng
như mối quan hệ giữa con người với nhau, và cả giữa con người và thế giới thần
thánh, qủy ma. Vậy nên, tầm quan trọng của ăn uống mang chiều sâu triết học và
tầm kích tâm linh (spiritual dimension) mà chúng ta không thể chối bỏ được.[1] Bài báo cáo sau
đây hạn hẹp vào công việc truy tầm nguyên lý triết học trong nền văn hóa Việt về
ăn uống. Từ ăn uống bao gồm hai động tác ăn và uống. Tuy
nhiên người Việt thường đều hiểu ăn uống một cách chung như là cách sống.
Hiểu như vậy, công việc phân tích thường tập trung vào ăn và ít để ý nhiều đến
uống. Trong luận văn này, chúng tôi thường dùng cả hai từ ăn uống (ẩm thực) theo
lối hiểu bình dân của người Việt, tuy trọng tâm vẫn là ăn.[2]
Như
tác gỉa từng khẳng định trong những luận văn trước đây, triết lý Việt không
chỉ có thấy trong những tác phẩm của giới trí thức, đặc biệt giới nho sĩ hay
tăng sĩ, mà thôi. Nó còn sâu đậm hơn trong chính những nền văn hóa dân gian như
nền văn học bình dân, nền nghệ thuật nông thôn, và nhất là qua cách ăn, cách
nói, cách sống, cách cư xử của người Việt. Chính cuộc sống Việt mới là cội
nguồn của nền văn hóa Việt.[3] Từ một lối nhìn
như vậy bài viết này chủ trương, để xây dựng một nền Việt Triết, ta có thể bắt
đầu với việc suy tư, phân tích cũng như khai quật nguyên lý của những sinh hoạt
chung trong cộng đồng người Việt. Nơi đây, bài tham luận nhắm khai quật cái
đạo và cái lý (tức nguyên lý và lý do) trong những cách thế ăn uống,
phép tắc ăn uống, tổ chức ăn uống như tiệc tùng, giỗ, mừng, khao vọng, cúng tế,
đãi, bố thí, vân vân.[4] Chúng tôi muốn
biết họ nghĩ như thế nào về ăn uống. Tại sao người Việt bắt đầu với từ ăn, và
gắn liền ăn với mọi sinh hoạt khác như ở, uống, nằm, chơi, ỉa. Luận văn cũng
muốn tìm hiểu họ theo phương cách nào để ăn uống, họ diễn đạt mình như thế nào
qua cách thế ăn uống, qua chính những thực phẩm và lối nấu nướng. Nói cách
chung, cái đạo lý ăn uống (tức đạo ăn) của họ có phản ánh được đạo
sống[5] của họ hay
không.
Như
các bài viết khác, luận văn bắt đầu với công việc phân tích và xếp loại những
cách thế suy tư về lối ăn uống, cũng như về phong tục, quy luật ăn uống như thấy
trong ca dao, tục ngữ.[6] Trong phần thứ
hai, người viết đi xa hơn, đào sâu vào những nguyên lý đàng sau những
thói quen, phong tục, quy luật này. Nói cách khác, để hiểu lý do tại sao
người Việt lại chọn một loại thực phẩm nào đó cho những buổi lễ lạy cố định, tại
sao họ phải tuân theo cách thế ăn uống vào những dịp hay những nơi công cộng như
đình, chùa, tại sao họ lại nấu nướng, chế biến thức ăn như vậy. Nói gọn lại,
luận văn đi tìm nguyên lý về sự tương quan giữa ăn uống với lối sống
Việt.
Là một
người quan tâm tới công việc xây dựng một nền thần học Việt mà Viện Triết
Đạo đương đeo đuổi, phần kết luận chỉ là những gợi ý về khả thể của một
lối hiểu Việt về nhiệm tích Thánh Thể, nhằm đóng góp vào những thảo luận
đương thời về ý nghĩa của nhiệm tích này.
2. Đạo
Sống và Đạo Ăn 2.1. Ăn Uống Như Là Một Đạo Sống
Như ai
cũng biết, câu nói “có thực mới vực được đạo” không chỉ là một câu nói vui đùa;
y hệt như câu thơ “Ông nghè ông khóa cũng nằm co” không chỉ mang tích chất trào
phúng, tự ngạo mình của giới nho mạt.[7] Chúng phản ánh lối
suy tư rất ư thực tiễn của dân Việt: “Dĩ thực vi tiên.” Không những vậy, ăn uống
đã biến thành cái đạo sống, đạo cư xử, hay nói rõ hơn, đạo làm người
Việt. Người Việt lấy “miếng trầu làm đầu câu truyện.” Họ nhận ra trong ăn
uống tính chất linh thiêng (sacred): “Trời đánh còn tránh miếng ăn.” Họ coi việc
mời ăn, mời uống, tặng qùa cáp (thực phẩm) như là thước đo lòng người: “có đi có
lại mới toại lòng nhau.” Dĩ nhiên, đó cũng là một lẽ tất yếu trong cuộc giao
tiếp: “hòn đất ném đi hòn chì ném lại.” Và họ diễn tả cái đạo làm người, lòng
tôn kính tổ tiên qua “đạo ăn”: “Ăn qủa nhớ kẻ trồng cây,” hay qua “đạo uống”:
“uống nước nhớ nguồn.” Thế nên, họ chán ghét những kẻ “ăn cháo đá bát,” “qua cầu
rút ván,” hay “vắt chanh bỏ vỏ.” Họ chê bai bọn “ăn quỵt,” “ăn bẩn,” “ăn bớt, ăn
xén.” Họ không thích những kẻ “ăn bậy, ăn bạ,” hay “ăn trên ngồi chốc.” Họ khinh
bỉ “bọn” “ăn không ngồi rồi,” “mồm lê mách lẻo,” “ăn chực, ăn rình.” Nói cách
chung, chỉ có bọn tiểu nhân không xứng đáng cái danh hiệu trai Việt gái Nam, mới
có cái lối “ăn bậy uống bạ,” “ăn ở vô phép vô tắc,” “ăn gian nói dối,” “ăn bám,”
“ăn nợ” như vậy. Vậy nên, ta có thể nói, những câu nói tương tự phản ánh được
bản chất của người Việt. Và qua chính những câu nói như vậy, ta có thể thấy được
cách sống, tầm quan trọng cũng như đạo lý sống của họ. Một
đạo lý mà theo người Việt, ngay cả ông Trời cũng công nhận và tuân thủ: “Trời
đánh còn tránh bữa ăn.”
Trong
giới nho gia, Nguyễn Khuyến không phải là thi sĩ duy nhất bị ăn uống “ám nhập.”
Giới văn, thi sĩ như Tản Đà, Trần Tế Xương, rồi Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, và
gần đây hơn, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng…đều bị ăn uống “ám ảnh” cả. Thế nhưng, ai dám
cáo tội họ là bọn phàm phu tục tử. Thật ra, họ chẳng phàm chẳng tục. Đúng hơn,
họ can đảm viết ra những ý nghĩ trung thực của người Việt: có thực mới vực được
đạo và dĩ thực vi tiên.
2.2.
Ăn Uống và Phép Tắc Xã Hội
Con
người Việt, cách chung, đều suy tư chung quanh lối ăn uống. Xác định nền văn hóa
cao, thấp, họ nhìn cách thế ăn uống. “Ăn lông ở lỗ” chỉ nền văn hóa thô sơ,
trong khi “ăn sang,” “ăn chơi”… chỉ một nền văn hóa hưởng thụ. Để định địa vị,
người ta đặt mâm, đặt đũa, đặt bát, xem món ăn, đo thức uống: “mâm phải cao, đĩa
phải đầy.” Vinh dự, vinh quang, vinh hiển cũng gắn liền với nơi ăn chỗ uống “một
miếng giữa làng bằng xàng xó bếp,” và món ăn “sơn hào hải vị” cũng như cách thế
ăn “yến tiệc linh đình.” Để nói lên tầm quan trọng xã hội, họ chỉ định món ăn,
thức uống: thủ lợn cho người quyền cao chức vọng, cho bậc tiên chỉ; trong khi
đuôi, chân, hay những phần không ngon cho giới lê dân. Sơn hào hải vị, yến xào
là những món chỉ có những bậc quan to chức lớn mới được vua thưởng, trong khi
thứ dân thì “vui” với hũ tương bầm, nồi gạo hẩm, niêu cá rô kho, đĩa rau muống
luộc. Mà đúng như vậy, mâm cao là biểu hiệu của quyền cao chức trọng. Chiếu hoa
giữa đình nói lên địa vị bậc trưởng thượng. Bát hoa, đũa ngà, cốc pha lê, mâm
son thếp vàng tự chúng đã làm nở mày nở mặt người xử dụng. Về đồ uống cũng thế.
Rượu ngon chỉ dành cho những người qúy trọng, cho bạn hiền, vân vân. Những chén
rượu cầu kỳ gốc tự Tầu, tự Tây đã từng là báu vật mà người dân đen chỉ mong được
ngắm, chứ đừng nói đến được sờ vào. Đối với bọn dân “ngu cu đen” thì một bát
rượu nhạt, một cốc rượu “quốc lủi” bên vệ đường hay trong xó bếp cũng đã gọi là
qúy. Nhưng đối với họ, chưa chắc ly rượu sâm banh có ý nghĩa hơn là bát rượu đế,
vì không có Bá Nha thì làm sao Tử Kỳ có thể nhâm nhi nhắm rượu một mình được:
rượu ngon phải có bạn hiền mới thật là ngon.
Để
được chấp nhận, công nhận, ta cần phải khao, phải đãi, phải vọng. Đình
đám, tiệc tùng thực ra là những bữa khao, bữa vọng, bữa đãi, bữa hoan (nghênh),
bữa tống (biệt), bữa từ (khỏi tai nạn), bữa sầu (khổ), vân vân. Danh chính ngôn
thuận luôn đi đôi với khao với đãi: khao làng, khao xóm, đãi quan, đãi họ hàng,
đãi bạn bè, và đãi cả những người giúp việc. Cưới hỏi phải khao phải đãi là lẽ
tất nhiên. Nhưng, đậu đạt, làm ăn phát đạt, thậm chí mua nhà tậu đất, sinh con
đẻ cái, nhất nhất ta cũng phải khao đãi hàng xóm láng diềng. Khao đãi đã thành
một cái luật bất thành văn mà “phép vua cũng phải thua lệ làng.” Nhưng khao đãi
không chỉ là một tục lệ thông thường. Và nơi khao đãi không được tùy tiện. Khao
đãi phản ánh cái thú vui, cái lối diễn tả tâm tình, cái lối giao tiếp, cái đạo
sống, cái địa vị của người đãi, người được đãi, cũng như tầm quan trọng của bữa
ăn.[8] Khao vọng chỉ dành
cho những vị cao tuổi, hoặc có địa vị. Tiệc chỉ tầm quan trọng; mà tiệc tùng
không chỉ quan trọng mà còn long trọng. Tiệc ở đình mang một tầm quan trọng đặc
biệt, trong khi tiệc ở căn giữa nhà dĩ nhiên là qúy trọng hơn bữa cơm trong nhà
bếp. Nói cho cùng, ăn uống luôn có lý do phản ánh tầm quan trọng xã hội của
người mời cũng như người dự. Hoan nghênh, ta ăn. Tiễn đưa, ta uống. Vui thì
“nhậu nhoẹt.” Buồn thì nhâm nhi. Gặp tri kỷ, ta “chén tạc chén thù.” Thất bại,
ta cùng nhau “rượu vơi sầu khổ.” Lẽ dĩ nhiên, ta cũng thấy những bữa tiệc tương
tự, với những lý do tương tự trong các nền văn hóa khác.[9] Nhưng có lẽ hơn
họ, người Việt chúng ta chủ trương, đã ăn thì phải ăn cho đã, đã uống thì phải
uống cho say. “Nhậu chết bỏ,” “say chết luôn,” là những câu nói thường thấy trên
môi trên miệng người Việt. Vay tiền để ăn, mượn tiền để uống không phải chỉ là
kiểu sống của người Nam bộ dễ dãi, mà là cách sống chung của người Việt. Bởi lẽ,
say túy lúy, no kềnh bụng nói lên cái tình quyến luyến của họ: ”rượu say phải có
bạn nồng.” Cái tâm tình này dành cả cho những người qúa cố. Ma chay thì phải có
đám, mà giỗ thì phải là lễ. Đám thì có ăn, có uống, và giỗ thì còn long trọng
hơn. Người Việt ta trở về để giỗ chứ không phải để mừng sinh nhật. Càng thân
thiết thì càng không thể quên ngày giỗ: “Ai ơi ngày giỗ nhớ về.” Thành thử lễ
giỗ thường long trọng và quan trọng hơn. Phần dành cho người qúa cố không chỉ y
hệt dành cho kẻ còn lại, mà nhiều khi lại có phần hơn. Ở cái thế giới bên kia,
họ cũng cần ăn, cần uống, và cần cả tiền bạc để mua đồ ăn thức uống nữa. Nói tóm
lại ngày giỗ mang một ý nghĩa quan trọng, và đám giỗ nói lên tầm quan trọng này.
Ăn uống biểu tả tình thân mật thiết, là một sự “thông công” mà cả người sống lẫn
kẻ đã qua đời đều phải tham dự. Nói cách chung, vui ta ăn, buồn ta cũng ăn. Gặp
may ta ăn, gặp tai nạn, đau khổ ta cũng nhậu để “xả sui,” để bớt sầu. Ta có mọi
cớ để ăn.
Về
cách ăn, món ăn, ngưòi giầu thì phừa phứa, mâm cao đĩa đầy; còn người nghèo thì
vài món thanh đạm, một cút rượu quốc lủi, một gói lạc rang, dăm chiếc bánh đa
cũng gọi tạm đủ. Nhưng dù cho nghèo “rớt mùng tơi,” ngày giỗ, ngày lễ cũng không
thể để bếp tro lạnh lẽo. Lòng thành được biết qua những món ăn. Không có một quy
định rõ ràng phải bao nhiêu món, nhưng ai cũng biết là, càng sang càng
trọng càng nhiều, càng yêu càng qúy càng đắt. Thế nên nhìn
vào mâm cỗ, ta biết được mối quan hệ của người dự tiệc, tình thân nồng thắm vôi
trầu hay nhạt như nước ốc giữa chủ và khách, tầm quan trọng của bữa tiệc, vân
vân. Tương tự, nhìn vào món ăn, ta cũng dễ dàng nhận ra được sự tương quan giữa
chủ và khách. Nói tóm lại, ta có thể biết được tâm tình, mối tương quan, địa vị,
tầm quan trọng, mối liên hệ của người ăn qua chính những bữa ăn, món ăn, chỗ ăn:
chức nào phần nấy; phẩm nào món nấy; trật nào chỗ nấy và
tước nào rượu nấy.
Nói
như vậy không có nghĩa là con người Việt chỉ biết có ăn uống, đầu óc chỉ nhét
đầy rượu thịt, và cách sống, phép tắc chỉ toàn là những khao, đãi, mời mọc.[10] Người liêm sỉ vẫn
biết “miếng ăn là miếng nhục.” Người trí thức vẫn còn nhớ câu thơ của nhà thi sĩ
họ Nguyễn “ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no.”
Người bình dân ai mà chẳng biết “ăn lấy thơm tho, chứ không ai ăn lấy no, lấy
béo.” Người Việt không phải là hạng người “lấy bụng làm Chúa,” một hạng người
từng thấy nơi mọi xã hội mà thánh Bảo Lộc (Phao Lô) từng chê trách. Họ ăn nhưng
không tham, họ uống nhưng không phải là đệ tử của Lưu Linh,[11] và họ luôn có cái
đạo lý chính đáng sau những bữa tiệc đình đám.[12]
Nhưng
nếu người Việt qủa thật như thế, thì làm sao ta giải thích được hiện tượng qúa
chú trọng vào ăn uống, gần như bị ám ảnh, của họ? Làm sao ta hiểu được ăn uống
gần như đồng nghĩa với sinh sống? Đó không phải là một nghịch lý hay sao? Sự
thực là người Việt, đặc biệt giới nông thôn nghèo túng, gạo không đủ, thịt không
có, y như bất cứ giống người nào khác, luôn bị cái đói đeo đuổi. Nhưng cho dù bị
cái nghèo đói ám ảnh, họ vẫn không đánh mất liêm sỉ, vẫn chưa đem cái bụng lên
làm Chúa, bởi vì ai cũng biết “miếng ăn là miếng nhục,” và “miếng ăn để đời.”
Vào những năm khốn khổ bi đát ở vùng châu thổ Bắc hà (1945-6), khi mà hàng triệu
người chết đói, thì nạn cướp bóc, đĩ điếm, tuy có, nhưng vẫn còn thua xa các dân
tộc khác.[13] Họ tuy cho con đi
ở đợ (để con khỏi đói), nhưng không có đem bán chúng như món hàng hóa. Họ có thể
làm lẽ (trường hợp Kiều), nhưng họ vẫn biết, đó là nỗi nhục họ chịu đựng để cứu
gia đình họ.[14] Họ tuy đi ăn xin,
nhưng họ vẫn biết đó không phải là một nghề, kiểu nghề “khất thực” của “cái
bang.”[15] Họ tuy phải “bán
thân”nhưng họ biết đó là nỗi khổ, nỗi nhục, nỗi đau, và có lẽ không hề dám nghĩ
đến việc hợp pháp hóa, công khai như kỹ nghệ “bán hoa” tại các nước Âu
Mỹ.
Đây
không phải là trọng tâm của bài viết, nên xin không bàn tới. Điều mà chúng tôi
chú ý, đó là, đối với ngưòi Việt, ăn uống là những cách thế, hình thức, và cả
phép tắc biểu tả xã hội Việt, diễn đạt con người Việt, nền luân lý, cách xử thế
của họ. Cách thế hay, hình thức tốt, phép tắc hợp lý tạo ra một xã hội có tôn
ti, có trật tự, nói lên cái chính danh, đạo nghĩa con người; cha ra cha, con ra
con; thầy ra thầy trò ra trò, quan ra quan, dân ra dân. Nguợc lại, vô lễ vô tắc,
kém đạo thiếu tình nói lên một xã hội kiểu “ăn lông ở lỗ.” Nếu qủa như vậy, thì
ăn uống cũng có thể biểu tả được xã hội: ăn uống có phép có tắc nói lên một xã
hội tôn ti trật tự; ngược lại, nhậu nhoẹt sô bồ chỉ phản ánh được lối sống
“thiên nhiên” của con người “tiền sử”: “ăn lỗ miệng, tháo lỗ trôn” hay “ăn lắm
thì hết miếng ngon. Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ.”
2.3.
Ăn: Biểu Hiệu Toàn Diện Sinh Sống
Chúng
ta bắt đầu với ngôn ngữ thường nhật về ăn, và không ngạc nhiên khi thấy chữ ăn
gần như gắn liền với mọi tác động, ý thức, phán đoán gía trị, đạo đức của người
Việt, từ sinh (ăn nằm, ăn đẻ) tới cuộc sống (ăn nói, ăn học, ăn nằm, ăn ở…), từ
sống tới lạc thú (ăn chơi, ăn mặc), từ tôn giáo (ăn thờ) tới đạo đức (ăn năn).
Mặc dù rất thông dụng trong ngôn ngữ thường nhật, ta vẫn thử lướt qua các từ ăn
tương đối thông dụng:
- Ăn
(Bắc mặc Kinh), ăn bám, ăn bậy ăn bạ, ăn bẩn (ăn thỉu), ăn bịp ăn bợm, ăn bốc,
ăn bơ (làm biếng), ăn bớt (bát, nói bớt lời), ăn bữa (sáng, lần bữa tối), ăn bừa
ăn bãi (ăn bừa ăn bứa), ăn bủn (ăn xỉn, ăn bùi)…
- Ăn
chực (nằm chờ), ăn cá (bỏ vây), ăn cây (nào rào cây nấy), ăn cắp, ăn có chỗ (đỗ
có nơi, ăn có nơi làm có chỗ, ăn có mời làm có khiến), ăn cỗ (đi trước, lội nước
đi sau), ăn cơm chúa (múa tối ngày), ăn cơm (không rau như nhà giàu chết không
kèn trống), ăn cơm (lửa thóc ăn cóc bỏ gan), ăn cơm mới (nói chuyện cũ), ăn của
ngọt, ăn cay (nuốt đắng), ăn chơi, ăn chạy, ăn chay, ăn chầy (ăn cối), ăn chịu,
ăn chung, ăn chẹn, ăn chừng (mực), ăn chửng ăn chưng, ăn cùng (nói tận), ăn cỗ,
ăn cứt, ăn c. (chửi tục), ăn cúng, ăn chín, ăn công (ăn tư), ăn của ngon (mặc
của tộ), ăn cơm nhà (vác ngà voi), ăn cơm nhà nọ (kháo cà nhà kia), ăn cơm nhà
(thổi tù và hàng tổng), ăn cơm với cáy (thì ngáy o o, ăn cơm với bò thì lo ngay
ngáy), ăn cùng chó (nói só cùng ma), ăn chẳng nên đọi (nói chẳng nên lời), (ông)
ăn chả (bà) ăn nem…
- Ăn
dầm nằm dìa, ăn da (lóc thịt), ăn dư (ăn giả), ăn dưng (nói có), ăn dởm (rởm),
ăn dùng, ăn dài, ăn dại, ăn dỗi, ăn dối, ăn dữ, ăn dùng, ăn “dzui”
(vui)…
- Ăn
đục (khoét), ăn đàn (anh làm đàn em), ăn đại, ăn đấu (trả bồ), ăn đong (cho đáng
ăn đong), ăn đông (ăn tây), ăn đám, ăn đứng (ăn nằm, ăn ngồi), ăn đã, ăn đẻ, ăn
đề, ăn đêm, ăn đè (ăn nén), ăn đẹp (chơi đẹp), ăn độc ăn địa, ăn đớp (ăn hít),
ăn độn, ăn đồng, ăn đổ, ăn đua, ăn đưa, ăn đón, ăn được (ngủ được là tiên, ăn
được cả, ngã về không), ăn đường…
- Ăn
gửi, ăn giỗ, ăn giờ (ăn giấc), ăn gả, ăn giấu ăn giếm, ăn gán, ăn gượng (ăn ép),
ăn gàn (nói gàn), ăn gạ, ăn ngồi (ăn không ngồi rồi)…
-
Ăn học, ăn hôi, ăn hờn, ăn hối (lộ), ăn ham, ăn hàng, ăn hại, ăn hết, ăn hiếp,
ăn hung, ăn hớt, ăn hời, ăn hởi, ăn (nói) hồ đồ, ăn (nói) hồ hởi, ăn hộ, ăn hội
đồng, ăn hơi, ăn hỏi…
-
Ăn ỉa, ăn ít, ăn ị, ăn ỉm (đi)…
-
Ăn không (nói có), ăn khăm, ăn khờ, ăn khoét, ăn khoẻ, ăn khoe, ăn (nói) khoác
lác, ăn khéo, ăn khơi khơi, ăn khổ, ăn khô, ăn khối, ăn khen
(kham)…
-
Ăn làm, ăn lắm, ăn lấy (thơm tho), ăn lỗ (miệng tháo lỗ trôn), ăn lông (ở lỗ),
ăn lúc (đói nói lúc say), ăn lời ăn lãi, ăn lợi (ăn hại), ăn lộc (thánh, vua),
ăn liều (nói bậy), ăn lề (phép), ăn lên (ăn xuống)…
-
Ăn mặc, ăn (lỗ miệng), ăn mày, ăn mời, ăn mò, ăn mẽ, ăn muộn, ăn mặn (nói ngay
còn hơn ăn chay nói dối), ăn miếng (trả miếng), ăn mướp (bỏ sơ),
-
Ăn nằm, ăn ngay (nói) thẳng, ăn nghỉ, ăn ngồi, ăn ngủ, ăn ngố ăn nghếch, ăn ngu
(ăn dại), ăn no (tức bụng), ăn nói, ăn nhạt, ăn nhiều, ăn nhịn, ăn như (tráng
làm như lão), ăn năn…
-
Ăn ốc (nói mò), ăn măng (nói mọc, ăn cò nói leo), ăn ớt (sụt sịt ăn quít ghê
răng), ăn ở…
-
Ăn phung, ăn phí (ăn phạm), ăn phừa ăn phứa, ăn phúc ăn đức, ăn phò, ăn (uống)
phô trương…
-
Ăn qùa, ăn qủa (nhớ kẻ trồng cây), ăn quịt, ăn quen, ăn qúa, ăn quán, ăn (nói)
quê mùa…
-
Ăn rỗi, ăn rờ, ăn rượu (nếp chết vì say), ăn rồi (lại nằm mèo), ăn rơi ăn rác,
ăn rủa (ăn riếc), ăn rửng ăn rưng, ăn rành…
-
Ăn sung (trả ngái), ăn sơ sơ, ăn sõi, ăn sống, ăn (uống) sô bồ, ăn sướng, ăn sả
(láng)…
-
Ăn tàn (theo đóm), ăn to (nói lớn), ăn tanh (ăn bẩn), ăn tham, ăn thật, ăn thúng
(trả đấu), ăn trái (nhớ kẻ trồng cây), ăn trắng (mặt trơn), ăn trấu, ăn treo, ăn
trên (ngồi chốc), ăn trông (nồi ngồi trông hướng), ăn trộm, ăn tiêu,
-
Ăn uống (tìm đến đánh nhau tìm đi)…
-
Ăn vạ, ăn vờ ăn vịt, ăn vặt ăn vãnh, ăn vụng, ăn vóc (học hay), ăn vội ăn vã, ăn
vung ăn vít, ăn vốn (ăn lời), ăn vơ ăn vét, ăn vui…
-
Ăn xổi (ở thì), ăn xôi (chùa ngọng miệng), ăn xép, ăn xưa (chừa sau), ăn
xuông...
-
Ăn yếu…
Ngoài
từ ăn, ta có những từ tương tự diễn tả ăn, nhưng thường mang nghĩa xấu hơn là
tốt:
-
Nhậu (thông dụng trong miền Nam): nhậu nhoẹt, nhậu tưng bừng, nhậu chết
bỏ, nhậu cho đã, nhậu tùm lum, nhậu bậy nhậu bạ, nhậu tôm, nhậu cá, nhậu dê,
nhậu chó… nhậu càn, nhậu tham, nhậu lậu..
-
Đớp (thông dụng ở miền Bắc): đớp hít, đớp miếng cơm, đớp bậy đớp bạ, (cũng
có nghĩa là cắn), đớp trước đớp sau, đớp của (thiên hạ) (có nghĩa ăn cắp, tham
nhũng), đớp thịt đớp cá, đớp người (cũng có nghĩa là cắn, hay đánh), đớp tiền
đớp bạc (có nghĩa là ăn cắp, ăn quỵt),
-
Biện: biện cơm em, biện (biển) thủ, biện sĩ (người trí thức chỉ biết ăn,
khác với biện sĩ, người biện hộ)..
-
Thực (tiếng Hán, sực, Quảng Đông, ăn): thực phẩm, thực khách, thực đơn,
thực phạn.
-
Chén: Chén vốn có nghĩa là bát đĩa dùng để uống, ăn (chén rượu, chén cơm,
chén rau), nhưng nơi đây chỉ tác động ăn uống: chén tạc chén thù, đánh chén, ăn
chén (ăn tiệc), vân vân.
2.4.
Phân Tích Những Đặc Tính Trong Văn Hóa Ăn
Từ
những nhận định sơ bộ, và từ những câu nói liên quan tới ăn trong phần trên, ta
thấy ăn uống là một phần tối quan trọng không thể tách rời khỏi đời sống Việt.
Tầm quan trọng, cũng như tầm ảnh hưởng rộng lớn của sinh hoạt ăn uống từng được
người dân công nhận như chính cuộc sống. Chính vì thế mà từ ăn không chỉ hành
động ăn, từ uống không chỉ biểu tả tác động uống mà thôi. Chúng nói lên mọi
sinh hoạt của con người Việt, mọi phán đoán đạo đức, cũng như tâm tình của
họ. Người ngoại quốc sẽ không hiểu, mà rất có thể cho là người Việt ngớ
ngẩn, kỳ cục khi dùng những từ không tương xứng, hay không thể có như ăn nằm,
ăn tục, ăn bậy ăn bạ, ăn chơi, ăn bẩn ăn thỉu, ăn cháo đá bát. Họ khó có thể
hiểu được kiểu nói như ăn trên ngồi chốc, ăn liều nói càn, ăn nói vô
duyên, vân vân. Lẽ dĩ nhiên, họ càng không thể (hay không dễ mà) hiểu được
những kiểu ví von như ăn năn (hối lỗi), ăn chực nằm chờ, ăn phải bùa ngải, ăn
ở với nhau, vân vân. Trong phần tới, chúng tôi thử phân tích những từ, những
kiểu nói trên trong mối liên quan với những khía cạnh của cuộc
sống.
2.3.1.
Ăn là một hành vi thuần túy với những mục đích khác nhau
Nơi
đây từ ăn nói lên động tác ăn với nhiều mục đích khác nhau. Ăn để sống, ăn để
vui, ăn để xã giao, ăn để quên buồn, ăn để mừng, vân vân, và nhất là ăn là một
lối hưởng thụ. Sinh hoạt ăn này chỉ mang ý nghĩa ăn thuần túy, tức dùng miệng,
răng để ăn, và tiêu hóa trong bụng. Do đó, ăn luôn đi với thực phẩm, như ăn cái
gì; với cách ăn, vác cách thế nấu ăn: phải ăn ra sao; đồ ăn gì phải ăn cứng,
thức ăn gì phải ăn mềm, thịt rau loại gì phải ăn sống hay ăn chín hay ăn tái,
phải nấu thế nào: “cải nhừ cần tái,” “bò tái trâu nhừ.” Rồi, thực phẩm nào cần
gia vị nào: “chó riềng, gà hành,” vân vân. Hơn thế nữa, bữa cơm ngon cần có một
Bá Nha, một Tử Kỳ. Bữa ăn mà không có câu chuyện “làm qùa” thì lạnh lẽo như bữa
cơm ma, rượu thì nhạt hơn cả nước ốc. Chính vì vậy, một người rất biết thưởng
thức nghệ thuật ăn như Tản Đà từng đưa ra bốn nguyên tắc về nghệ thuật ăn: món
ăn phải nấu ra sao cho ngon, người ăn phải ăn với ai mới thú, nơi ăn phải thơ
mộng mới thêm thú vị, và thời gian ăn phải đúng thời điểm mới thêm phần long
trọng: “Đồ ăn không ngon, cơm không ngo. Đồ ăn ngon, người ăn không ngon, bữa ăn
không ngon. Đồ ăn ngon, người ăn tri kỷ, nhưng nơi chốn không đẹp, bữa ăn cũng
không ngon; và nếu ở vào thời điểm không đúng, bữa ăn cũng không
ngon.”
Từ đây
ta thấy, việc chọn đồ ăn, việc nấu ăn, cũng như cách ăn, cách chế biến thực phẩm
đóng góp một phần quan trọng trong nghệ thuật ăn, phản ánh lối suy tư Việt.
- Về Đồ
Ăn: Ăn
xôi, ăn thịt, ăn cơm, ăn rau, ăn bánh, ăn qùa, ăn canh (người Tầu nói là uống
canh)… Ăn loại nào, thì phải nấu thế nào, phải cần gia vị nào, phải nuớng, rán,
luôc hay chiên: “Con gà cục tác lá chanh / Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi / Con
chó khóc đứng khóc ngồi / Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
- Về
Cách Ăn: Ta
phải ăn như thế nào, dùng đũa hay dùng tay, ngồi hay đứng, ăn trước hay ăn sau,
ăn chậm hay ăn nhanh: “ăn chậm mất ngon,” “Ăn bốc, đái đứng.” Tương tự, ăn đồ gì
phải ăn như thế nào: “Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan” hay “Ăn cá bỏ vây,” “Ăn cá
nhả xương, ăn đường nuốt chậm.”
- Về
Thái Độ Ăn: Ta
phải ăn như thế nào. Ăn với ai phải có thái độ nào; ăn ở đình khác với ăn ở nhà;
mà ăn với khách lại khác với ăn với bạn thân. Thế nên, “Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng” cũng như “rào trước đón sau.” Phong tục mời cơm, mời cha mẹ, mời các bậc
trưởng thượng dùng cơm trước, rồi ăn giữ kẽ là những cách biểu hiện thái độ ăn
của người Việt.
- Về Nơi
Ăn: Ta phải ăn ở đâu. Dịp nào phải ăn chỗ nào: “Một bát giữa làng bằng một sàng
xó bếp.” Nhưng để mời khách, người Việt thích mời họ về nhà hơn là quán. Không
phải vì tiết kiệm, nhưng vì đó là một dấu tỏ thân thiện “cơm nhà lá vườn.” Hay
như Nguyễn Khuyến từng diễn đạt: “Đã bấy lâu nay bác tới nhà… Bác đến chơi đây
ta với ta.”
2.3.2.
Ăn là một cách sống
Quan
trọng hơn, cách ăn uống, y hệt như cách ăn nói biểu hiện chính cách sống. Thứ
nhất, nó biểu hiện qua hành vi. Chúng ta chỉ cần nhìn người ăn, cách ăn, nơi ăn,
thì đã có thể biết được người đó thuộc loại người nào, trí thức hay lao công,
thành thị hay thôn quê, bắc hay nam. Người lao động húp canh sùm sụp, và cơm như
gió, trong khi nhà nho ăn nhỏ nhẹ, uống nhâm nhi, “ăn chẳng cầu no.” Người buôn
bán ăn vội vã, vừa ăn vừa làm, trong khi những cụ già khề khà với ly rượu nho
nhỏ, suốt ngày chưa xong. Từ những thái độ ăn như vậy, ta thấy chúng nói lên lối
sống của mỗi người: người thợ lam lũ với cách thế ăn mộc mạc, thẳng thừng; người
có học, từ từ không vội vã. Chính vì nhận thấy sự tương quan giữa lối ăn và cách
sống, mà ta thấy trong ca dao tục ngữ không thiếu những câu như “Ăn đã vậy, múa
gậy làm sao,” hay “ăn bốc đái đứng.”
Nếu
cách thế ăn uống phản ánh hành vi con người, thì ở xã hội nào chả thế. Có chi
đáng nói. Ở đâu mà giới thợ thuyền có thể chầm chậm thưởng thức sâm banh như
giới qúy tộc nhàn nhã hưởng thụ? Ở đâu mà giới nông dân có thể hưởng bữa tiệc cả
mấy tiếng đồng hồ của bọn trưởng gỉa học làm sang? Điểm mà chúng tôi muốn nói,
đó là cách sống Việt qua lối ăn uống không chỉ là những phản ứng máy móc, tùy
thuộc vào thời gian và công việc. Hơn thế nữa, miếng ăn, cách ăn phản ánh lối
sống, tức lối cư xử cũng như lối phán đoán giá trị của họ. Thế nên đối với họ,
không phải “người thế nào ăn thế nấy,” mà lối ăn đánh giá trị lối cư xử, lối
sống. Họ nói “Ăn đấu trả bồ” khi diễn tả lối sống sòng phẳng, công bằng. Khi
diễn tả sự tranh dành, hay sự ganh đua, trả thù, họ nói “ăn miếng trả miếng,”
hay “chồng ăn chả vợ ăn nem.” Tương tự, ăn uống nói lên tâm tình tri ân: “ăn qủa
nhớ kẻ trồng cây,” hay “uống nước nhớ nguồn.” Ăn uống cũng nói lên niềm hy
vọng:
“Ăn
đong cho đáng ăn đong.
Lấy
chồng cho đáng hình dong con người
Ăn đua
cho đáng ăn đua
Lấy
chồng cho đáng việc vua việc làng”
Sau
nữa, người Việt đánh giá trị cách sống bằng chính cách ăn, hay dụng cụ để ăn như
bát, đũa, mâm, vân vân. Thế nên, cách ăn, dụng cụ ăn luôn đi đôi với thân thế,
cũng như với tầm quan trọng của bữa ăn. Người Việt xếp loại bữa ăn theo tầm quan
trọng: bữa cơm, bữa cỗ, bữa tiệc, đám. Ăn không tương xứng với thân phận; dùng
dụng cụ ăn không tương xứng với tầm quan trọng của bữa ăn thường được ví von so
sánh với mặt trái của xã hội:
Vợ
chồng như đũa có đôi
Bây
giờ chống thấp vợ cao
Như
đôi đũa lệch so sao cho đều
Hay:
Vợ dại
không hại bằng đũa vênh
2.3.3.
Ăn là nghệ thuật sống
Khi
nói ăn là một cách sống, là một lối sống, chúng tôi cũng phải nói thêm, đối với
người Việt, ăn là một nghệ thuật sống. Một lối sống có ý nghĩa là một lối sống
đầy nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật ăn uống. Chúng ta không lạ gì nghệ thuật
uống chè của người Nhật, lối ăn cầu kỳ của người Trung Hoa, hay những bữa tiệc
đầy hình thức của giới ngoại giao. Chúng làm cuộc sống của họ thêm thú vị, hay
ít ra, không mấy nhàm chán. Tương tự, nơi người Việt, nghệ thuật ăn làm cuộc
sống của họ mặn mà hơn. Cách tiếp khách thân thiện nhất vẫn là một bữa ăn thịnh
soạn. Lối yêu thương chồng, con cái cụ thể nhất, vẫn là việc người vợ, người mẹ
“mặt mũi nhọ nhem, mồ hôi nhễ nhãi” sửa soạn những món ăn người chồng và con cái
ưa thích.
Vậy
nên, ta có thể nói, nghệ thuật sống của người Việt không chỉ nói lên cách sống
thoải mái, khiến giác quan thích thú, mà còn hơn thế nữa, nó biểu tả những cảm
tình sâu đậm nhất. Qua ăn, ta có thể tìm được sự thỏa mãn tình cảm. Qua
ăn, ta có thể biểu lộ tình yêu, tình thương, hay sự quan tâm của ta với người
khác. Và như vậy, nghệ thuật ăn của ta có lẽ hơi khác với nghệ thuật ăn
uống của các dân tộc khác. Người mẹ cảm thấy hạnh phúc khi nhìn chồng con “nhồm
nhoàm” ăn không kịp thở. Người con vui sướng khi thấy bố mẹ thưởng thức món qùa
(bánh) cô (anh) ta làm biếu song thân. Nơi đây, ta thấy người Việt diễn tả nghệ
thuật sống qua chính nghệ thuật ăn uống. Nghệ thuật ăn của họ mục đích không chỉ
nhắm tăng khẩu vị, không chỉ để thỏa mãn dạ dày, mà còn để biểu lộ tình cảm của
họ. Như vậy, nó không hoàn toàn chỉ dừng lại nơi nghệ thuật thưởng thức
mỹ vị của mỗi cá nhân. Ta biết người Tầu rất để ý đến mùi vị, mầu sắc, cách xếp
món ăn. Nghệ thuật nấu nướng rất cầu kỳ, không chỉ làm ta “khoái khẩu” mà còn
“khoái nhãn,” “khoái vị,” và “thỏa mãn óc tưởng tượng.” Đối với người Nhật, nghệ
thuật ăn, uống phản ánh nghệ thuật sống của họ: rất tỉ mỉ, rất điêu luyện, gần
thiên nhiên (biển cả), gần thế giới cỏ cây. Nhưng nói chung, đối với người Tầu
hay người Nhật, nghệ thuật ăn mục đích chính vẫn là làm thỏa mãn ngũ giác của
chính người đương ăn. Nghệ thuật bếp núc của họ chưa hẳn gắn bó với tình cảm con
người, một cách mật thiết và một cách toàn diện, như trong các món ăn Việt.
Chính vì coi tình cảm là bản chất, mà đối với người Việt, ăn không chỉ nói lên
tình trạng thoải mái của con ngưòi:
Ăn
được ngủ được là tiên
Không
ăn không ngủ mất tiền thêm no
Mà còn
biểu tả sự hưởng lạc:
Ăn lấy
đời, chơi lấy thời
Và
nhất là biểu lộ tình thương:
Ăn
rượu nếp chết vì say
Chẳng
say vì tượu mà say vì người
Say vì
cái miệng ai cười
Đôi
mắt ai liếc chào mời nò nang.
2.3.4.
Ăn uống như là quy luật sống
Quan trọng hơn cả, đó là nguời Việt thường
đánh giá trị con người qua miếng ăn, cách thế ăn. Nói cách khác, quy luật xã hội
thường được người Việt diễn tả qua lối ăn uống: ăn uống phản ánh phạm trù sống,
phương thức sống, cách thế sống và phép tắc sống. Và từ đây, ta có thể nói, quy
luật, phép tắc ăn uống cũng phản ánh một phần lớn phép tắc sống. Ta thấy trong
các câu ca dao tục ngữ như sau:
-
Ăn nói lên quy luật sống
Ăn cây
nào rào cây nấy
- Ăn
nói lên bổn phận sống:
Ăn qủa
nhớ kẻ trồng cây
Uống
nước nhớ nguồn
-
Ăn nói lên phương cách sống
Ăn có
nơi làm có chỗ
2.3.5.
Miếng ăn nói lên tấm lòng sống:
Nhưng
quy luật sống chỉ được tuân thủ, nếu nó phản ánh, giúp và giải quyết những vấn
nạn trong cuộc sống. Và nhất là nó phát xuất từ chính tấm lòng của con người.
Đây là một lý do quan trọng giải thích vai trò quan trọng của ăn uống trong nền
văn hóa Việt. Bài thơ của Nguyễn Khuyến sau đây được người Việt ưa thích, chính
vì nó nói lên tâm tình chung của dân Việt:
“Đã
bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ
thời đi vắng chợ thời xa
Ao sâu
nước cả không chài cá
Vườn
rộng rào thưa khó đuổi gà
…..
Bác
đến chơi đây ta với ta.”
2.3.6.
Ăn biểu hiện tính cộng đồng, xã hội
Trong
tập Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm nhận định, chính những đặc
tính như tổng hợp, cộng đồng và mực thước thấy trong nghệ thuật ăn uống mới là
những nguyên lý cốt lõi của văn hóa Việt.[16] Nhận định trên
qủa thật có một cơ sở khá chắc chắn. Nơi đây, chúng tôi xin bàn thêm về tính
chất cộng đồng (hay gia đình) của bữa cơm Việt, lối ăn Việt, và ngay cả cách chế
biến thực phẩm Việt.
Bữa
cơm truyền thống Việt ngồi quay quần trên chiếu, chung quanh mâm
cơm cũng tròn.[17] Cách ăn cũng cộng
đồng: cùng chấm một bát nước mắm, cùng múc một bát canh,
cùng gắp món ăn từ đĩa, cùng một niêu (nồi) cơm.[18] Không có chia
phần, cũng không có phân loại, như thường thấy trong bữa ăn Âu Mỹ. Thêm khách,
thêm bát, thêm đũa, và mọi người đều nhịn một tí để chia cho người
khách.
Tuy
theo trật tự trên dưới. Người dưới đợi người trên, nhưng ngược lại, ta cũng thấy
người trên nhường người dưới. Con cháu mời và đợi ông bà, cha mẹ gắp thức ăn, ăn
trước. Nhưng ông bà, cha mẹ thường gắp thức ăn cho con cháu trước. “Ăn trông
nồi, ngồi trông hướng” không có nghĩa là tuân thủ quy luật kẻ ngồi trên. Câu này
mang một ý nghĩa tương quan. Ta tuân thủ luật tương quan cộng đồng một
quy luật dựa theo sự tương quan giữa mọi người. Do vậy, người Việt không có
lễ nghi cố định trong các bữa tiệc, nhưng họ có lễ phép theo tinh
thần tôn kính và nhường nhịn. Con kính cha, cha nhường con, cháu mời ông, ông
cho cháu. Chủ nhường khách, khách nhường chủ. “Ngồi trông hướng” có lẽ phải hiểu
theo nghĩa như vậy. “Ăn trông nồi” là xem nồi cơm có đủ cho mọi người hay không.
Đây là lý do tại sao ai cũng ăn không no, nhưng mà đồ ăn vẫn còn đồ thừa. Ai ai
cũng nhường cho nhau.
Tính
chất cộng đồng cũng thấy trong cách dùng bát, đũa, nồi và mâm. Chiếc bát “cái”,
chiếc đĩa “cái” để dùng chung, và đặc biệt là cái mâm, bát nước mắm và bát canh.
Tác gỉa Băng Sơn nhận xét: “Lý do gì mâm mang hình tròn… có lẽ trước hết vì nó
hợp lý, gần với tất cả mọi người ngồi quanh nó… Tâm điểm của mâm là bát nước
chấm, một đặc biệt của mâm cơm Việt Nam, nó điều hòa mọi vị khẩu mặn hay nhạt,
chua hay cay, đặc hay loãng…”[19] Tương tự, Trần
Ngọc Thêm cũng nhận định: “Tính cộng đồng và tính mực thước trong bữa ăn thể
hiện tập trung qua nồi cơm và chén nước mắm.”[20]
3. Đạo
Lý Ăn Uống của Người Việt
Từ
phân tích và phân loại về ý nghĩa, thói tục ăn uống cũng như những đặc tính
trong phần trên, ta có thể nhận ra một cách dễ dàng cái đạo và cái lý
của ăn uống. Nền đạo lý này gần như đồng nhất với nền đạo lý sống của
họ. Khi dùng hai từ đạo và lý, chúng tôi muốn nhấn mạnh tới bản
chất và lý do của sinh hoạt ăn uống. Nếu ăn uống biểu tượng cho cuộc
sống toàn diện. Phần này, chúng tôi xin trình bày một cách khái quát, ngắn gọn
nền đạo lý này.[21]
3.1.
Nguyên Lý Sống, Sống Lâu, Sống Đẹp
Là một
bản chất, ăn uống gắn chặt với cuộc sống. Cuộc sống không thể có, cũng
không thể tồn tại, và càng không thể đem lại vui thú nếu không có
ăn uống. Nói một cách rõ hơn, ăn uống theo ba nguyên lý căn bản, tạo ra cái mà
chúng tôi gọi là đạo ăn. Những lối nói, những câu ca dao tục ngữ, đồng
dao và những nhân thoại về sự tích bánh giầy bánh chưng, dưa hấu (tây qua)…đều
chỉ ra những 3 nguyên lý, được diễn tả trong những đặc tính như sau đây:
Thứ
nhất, ăn uống đem lại sự sống.
Thứ
hai, ăn uống giúp ta bảo vệ cuộc sống, nối dài cuộc sống.
Thứ
ba, ăn uống đem lại niềm vui.
Thứ
tư, nền đạo lý ăn uống gắn liền với nền đạo đức xã
hội.
Thứ
năm, ăn uống biểu lộ và phát huy tình cảm
Chúng
tôi sắp xếp những nguyên lý này theo tầm quan trọng của con người: con người
sống như một sinh vật (homo brutus và homo erectus), con người
sống lao động (homo laborans) và ý thức (lý trí, homo sapiens), con người
sống cảm tính (hay nghệ thuật, homo ludens), con người sống xã hội
(homo socialis). Thực ra, chúng tôi ý thức việc người Việt không phân biệt và
không muốn tách biệt những nguyên lý trên một cách riêng rẽ như thấy nơi chủ
thuyềt duy lý. Tuy nhiên, để tiện việc thảo luận, tôi nghĩ, một thứ tự như vậy
giúp ta dễ dàng nhận ra những nguyên lý đàng sau đạo ăn uống. Nguyên lý “có thực
mới vực được đạo” cũng như “dĩ thực vi tiên”, và nhất là “hết gạo chạy rông,
nhất nông nhì sĩ” vẫn là cái đạo lý căn bản nhất. Nó nói lên bản chất thiết yếu
của tồn tại, cũng như tính chất thiết yếu của sinh hoạt con người. Nguyên lý thứ
tới, đó chính là duy trì và phát triển cuộc sống. Nguyên lý này nằm sau những
tác động ăn ở, ăn nằm, ăn học, vân vân. Qua ăn ở, con người mới có thể
sống lâu hơn. Qua ăn nằm, ta mới có thể sinh con đẻ cái, con dòng cháu
giống nối dõi tam đường. Qua ăn học ta mới phát triển tri thức, nhận biết
và làm cuộc đời tươi sáng hơn: “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh,” “võng anh đi
trước võng nàng theo sau,” hay “một người làm quan, cả họ được nhờ.” Rồi qua
ăn làm, con người có thể tự sinh tồn. Nguyên lý sau nữa, đó chính là nguyên
lý ăn chơi. Nguyên lý này dựa trên cảm tính, tạo ra những sinh hoạt vui
chơi (homo ludens), tình bạn bè qua bữa ă n (tiệc tùng, đám, khao, đãi, giỗ…),
tình yêu trai gái qua món ăn, nuớc uống (thực phẩm nói chung): “Nhớ ai như nhớ
thuốc lào” và vân vân. Và có lẽ, cả tình yêu đất nước cũng được biểu ta qua tình
yêut dành cho các món ăn. Phở, quốc hồn quốc túy là một ví dụ. Những câu ca tụng
mùi vị “thơm tho” của ngườIphụ nữ Việt “thơm như mít” là một ví dụ khác Biết bao
câu ca dao tục ngữ ví von tình yêu con người, tình yêu đất nước với tình cảm ta
dành cho món ăn .Ta đừng quên là, nguyên lý vui chơi bao gồm cả nghệ thuật ăn
uống, nghệ thuật hưởng thụ ăn chơi (nhậu nhoẹt): “sống trên đời ăn miếng giồi
chó, xuống âm phủ biết có hay không.” Nói cách chung, nguyên lý này có thể tạm
được xếp trong nguyên lý thẩm mỹ (aesthetic essence).
Tất cả những nguyên lý trên đều mang tính chất
cá nhân và xã hội. Chúng không lẫn lộn, nhưng quyện bó với nhau. Thắm thiết đến
độ ta khó có thể tách biệt chúng ra khỏi nhau. Những bản chất này cũng chính là
những bản chất của con người nói chung, tức cái đạo làm người. Đây là lý
do tại sao Tản Đà hay Trần Quốc Vượng đều theo nguyên lý trên khi áp dụng vào
nghệ thuật ăn uống.[22] Trong những đoạn
sau, chúng tôi tiếp tục phân tích văn hóa ăn uống, với nghệ thuật nấu nướng, với
những thói ăn, món ăn, cách nấu ăn. Tất cả đểu chỉ ra những nguyên lý sống
trên.
3.2.
Nguyên Lý Hòa Hợp
Từ
những nguyên lý sống trên, ta thấy nghệ thuật nấu ăn Việt nhắm tới nhiều mục
đích: đem lại sự sống, tăng triển sự sống, làm cuộc sống vui tươi. Để đạt tới
những mục đích trên, cách ăn, món ăn, cách nấu nướng…đều phải “ở sao được lòng
người,” “ăn sao cho đẹp lòng người” và “uống sao cho vui lòng người.” Do đó,
cách nấu nướng, món ăn, cách thế ăn đều mang tính chất hòa hợp, tổng hợp, linh
hoạt, biến đổi nhưng luôn quân bình.
Hoà
hợp là đạo lý quan trọng nhất trong nền văn hóa ăn. Hòa hợp giữa âm và dương,
giữa Trời và đất, giữa nội (cái từ trong chính cuộc sống) và ngoại (từ cuộc sống
khác bên ngoài). Từ đây, ta thấy, cách chọn vật liệu, gia vị, cách nấu nướng và
lối ăn đều theo đạo lý hòa hợp này. Khi chọn vật liệu, ta theo đạo lý hòa hợp
của âm dương: dương, âm không được qúa thịnh hay suy. Một bên qúa thịnh, một bên
khác qúa suy sẽ làm sức khoẻ thiếu quân bình, giảm sút, sinh bệnh tật. Tiến sỹ
Vũ Đình Trác đã viết hẳn một quyển sách, kê khai một bảng các chất liệu, gia vị
mang yếu tính âm dương. Chất liệu nào hợp với nhau, nghịch với nhau.[23] Trong cách dùng
gia vị, chế biến gia vị ta cũng thấy tính chất hòa hợp như vậy: có nạc có mỡ
(không phải nửa nạc nửa mỡ), có cay có chua, có đắng có bùi, có thơm có
‘thối’…[24] nhưng tất cả hợp
lại tạo ra một vị đặm đà, ăn mãi không chán, và làm ta nhớ mãi. Nước mắm là một
ví dụ, mắm tôm lại là một ví dụ khác. Một bát phở không có chất ngọt, chất chua,
chất cay, chất đắng (rau đắng) thì chẳng khác gí bát bún “dương xuân” của người
Tầu. Thế nên, việc họn gia vị làm chúng hòa hợp là một kỹ thuật của bếp núc
Việt.[25]
Rồi
vật liệu cũng phải hoà hợp. Nồi loại nào chỉ để nấu loại thịt hay cá nào: “Nồi
đồng nấu ếch, nồi đất nấu ốc.”
Cách
chế biến, cộng thêm sự việc chọn lựa gia vị, cũng như dùng vật liệu và công cụ,
Ta lại càng chú ý đến những món ăn mà người Việt ưa thích như cháo, lẩu, canh,
chế tạo nước mắm, gỏi cá, kho, hay ngay cả lòng (chó, lợn), tiết canh, vân vân.
Những món này thường là một “tổng hợp” một cách hòa hợp của nhiều chất liệu, tạo
ra một vị mới thật “ngon” và thật khoái khẩu: vừa ngọt vừa cay, vừa chua vừa
bùi, vừa mặn vừa đắng…
Cháo : Nồi
cháo Việt thường không đơn thuần. Trừ cháo hoa cho người ốm, nồi cháo người Việt
rất phong phú, gồm đủ mọi món, với đủ gia vị. Gừng tỏi, mắm, muối, lá thơm, vân
vân là những món gần như bắt buộc trong bất cứ nồi cháo nào. Rồi chúng ta có
cháo gà, cháo cá, cháo thịt, cháo tôm, cháo cua, cháo lươn, thôi thì đủ mọi thứ
mà ta có thể tưởng tượng. Nói cách chung, cháo là một mã số chung cho các món
khác như canh, lẩu.
Canh:
Tương tự, canh cũng là một loại gần như cháo. Chỉ khác, nếu gạo là món chính
trong cháo, thì rau là món chính trong canh. Cách nấu tuy hơi khác: “cháo hầm,
canh nấu,” nhưng cách thế nấu, cách thế thêm bớt gia vị theo cùng nguyên tắc:
tất cả những vật liệu gì làm bát canh ngon đều được tận dụng. Nồi canh Việt
thường rất tỉ mỉ, công phu. Nồi canh rau đay cua là một ví dụ. Từ giã cua, lấy
rươu cua, tới cắt rau, hay xén rau…đều theo một quy tắc, trật tự. Vào thời điểm
nào phải thêm (chêm) hay bớt gia vị nào. Đổ rượu vào trước sẽ khi thịt (đồ ăn)
chín nhừ, sẽ dễ mất vị. Ngược lại, thêm gia vị qúa muộc, mùi vị cũng thay
đổi.
Gỏi: Gỏi
cũng là một loại món ăn được chế biến theo nguyên lý hòa hợp “địa lợi nhân hòa.”
Loại cá nào có thể làm gỏi, và dịp nào phải ăn gỏi. Loại cá nào phải gỏi với
loại rau nào, chấm loại nước mắm (tương) nào. Đây là những câu hỏi mà đã là
người Việt bắt buộc phải biết. Người Nhật ăn cá biển tươi, trong khi người Việt
thích ăn gỏi cá tự nuôi trong ao nhà mình. Gỏi cá cần rất nhiều gia vị, cũng như
các loại tương, nước mắm, cũng như các loại rau thơm. Ngoài gỏi cá, ta còn có
nhiều loại gỏi khác như gỏi gà, gỏi tôm, gỏi cua, vân vân.
Nem: Tương
tự, nem thường chế biến từ thịt, đặc biệt thịt heo và thịt bò. Ta có nhiều loại
nem, nem sống, nem chín, nem tái. Nhưng cho dù loại nào đi nữa, chính gia vị,
các chất liệu, và cách dung hợp giữa chất liệu, thời gian, cách gói, dùng loại
lá nào để gói (lá chuối, lá khoai …) tạo lên mùi vị ngon, ngọt, chua, cay, bùi…
của nem.
Nước
Mắm: Ai
cũng biết, nước mắm là một đặc sản Việt. Nhưng cái đặc biệt của nước mắm không
phải vì nó có nhiều chất đạm, hay vì nó có thể thay muối. Mắm là một “món” chính
yếu, mang tính chất cộng đồng, hòa hợp và liên kết. Bát nước mắm giữa mâm. Bát
nước mắm được chế biến từ nhiều chất liệu. Bát nước mắm tượng trưng cho đất,
nước. Bát nước mắm nói lên đặc trưng “thổ sinh, thổ sản,” và vân vân, đủ mọi đức
tính. Chính vì vậy trong nghệ thuật chế biến nước mắm, kỹ thuât làm và “thắng”
nước mắm đều rất quan trọng.[26] Nước mắm Nghệ An
khác với nước mắm Phan Thiết, rồi nước mắm Phan Thiết khác với nước mắm Phú Quốc
chính ở nơi kỹ thuật làm và thắng mắm này.[27]
Phở
Phở là một món ăn biến chế từ bún Tầu, và có
một lịch sử rất ngắn, không qúa một trăm năm.[28] Nhưng dù ngắn
ngủi, phở vẫn được ưa chuộng nhất.. Nhưng khác với “hủ tíu” (cũng từ bún Tầu,
nhưng phát triển trong miền Nam), món phở đòi hỏi nhiều công phu hơn, đặc biệt
bánh phở và thùng nước dùng (nước lèo). Riêng thùng nước lèo cả là một tổng hợp:
nước và cái (khôn ăn nước dại ăn cái), gia vị và các loaị gừng, tỏi, ớt,
tiêu; thời gian ninh cũng như độ lửa lớn bé, nấu bằng than hay bằng gas, vân
vân. Rồi mầu sắc, cũng như mùi vị của nó là những cái chi tiêu biểu cho cá tính
của nười Việt. Chính vì phở được coi như là biểu tượng của món ăn Việt, và có lẽ
phản ánh chính con người Việt mà năm 2002 UNESCO đã tổ chức một cuộc hội thảo về
phở tại Hà Nội, và đã vẽ ra một bản đồ, gọi là bản đồ phở.[29]
Lối
Ăn
Ngay
cả các lối ăn cũng nói lên tính chất tổng hợp và hòa hợp này. Người Việt thích
ăn gỏi, ăn xôi, ăn xào, ăn lẩu và ăn luôc. Cho dù là gỏi (gỏi cá, gỏi tôm, gỏi
thịt…) hay luộc, thì các chất gia vị, các loại lá rau, đều được tận lực sử dụng.
Nước luộc thường được tận dụng làm canh. Nói chung, mỗi cách nấu nướng là một
qúa trình tổng hợp tạo ra một sự hòa hợp. Mỗi món ăn tượng trưng cho cả một cuộc
sống, một thế giới sống, như ta thấy trong phở, nuớc mắm, hay bánh giầy bánh
chưng, vân vân.
2.3.
Nguyên Lý Thực Dụng và Thích Ưng
Ngoài
ra, cần phải nói đến nguyên lý thực dụng và nguyên lý thích ứng, tức biến đổi
trong nghệ thuật ăn uống. Người Việt, tự bản tính, và do địa lý cũng như hoàn
cảnh, để có thể sinh tồn, bắt buộc phải có óc thực dụng, và nhậy cảm thích ứng
với hoàn cảnh.[30] Thực dụng và ứng
dụng do đó là những đặc tính chung thấy nơi người Việt, đặc biệt người Kinh.
Những đặc tính này đều phản ánh trong các món ăn, cách nấu nướng Việt. Những
chất liệu, hay những thức ăn mà người ngoại quốc vất bỏ, đều được tận dụng chế
biến thành những món ăn bất hủ: mề gà, chân gà, tim gan gà, lòng lợn, lòng
chó…Đặc biệt xương sẩu được ta chế biến thành những bát canh, nước lèo, hay đồ
nhắm rất ngon ngọt. Đặc tính thực dụng này cũng thấy nơi việc người Viêt tận
dụng mọi thức ăn, mọi loại rau cỏ mà Trời cho. Rau muống (người Tầu gần đây mới
ăn), rau dền, rau lang, mướp đắng, rau dại… không có loại gì mà người Việt bỏ
qua. Làm thịt một con heo, trừ lông và chất dơ, tất cả mọi bộ phận, cả máu
(tiết) đều được tận dụng. Nhờ vào tính chất linh động mà họ có thể chế biến mọi
thức, mọi loại hợp với khẩu vị, và tạo lên một món ăn, món nhắm thuần túy. Phở
là một ví dụ, Sầu riêng lại là một ví dụ khác. Biến một loại trái cây có mùi khó
ngửi như sầu riêng trở thành một món nhắm hay món tráng miệng thơm tho, khiến ta
mê mệt chỉ có thể thấy nớI ngườI Việt. Theo nhà văn Nguyễn Tuân, sầu riêng nhắm
với whisky hay cognac (theo Nguyễn Tuân) thì “hết sảy.” Nói tóm lại, hai nguyên
lý thực dụng và thích ứng biến động có thể thấy trong bất cứ món ăn gọi là đặc
sản của cả 3 miền Bắc Trung Nam.
Kết
Luận
Một
Vài Suy Tư về Phép Thánh Thể
Nhìn
từ chính lịch sử và ý nghĩa của bữa ăn cuối cùng (bữa Tiệc Ly) giữa đức Kitô và
môn đệ, phép Thánh Thể thực ra không phải là “phép,”[31] cũng không phải
là một nghi thức (Ritual Form), như chúng ta từng hiểu, càng không phải là loại
phù phép.[32] Trong bữa ăn
gĩa biệt này, đức Kitô đã lấy thực phẩm (đồ ăn, thức uống) và chính bữa
ăn làm biểu tượng cho sự sống vĩnh cửu, cho cộng thông và cho
tình yêu Chúa dành cho con người. Nói gọn hơn, đức Kitô coi bữa ăn như là
biểu tượng chính cuộc sống. Ngài giao sự sống của Ngài cho môn đệ,
và Ngài nhắc nhở các ông, là qua chính bữa ăn, các ông cũng phải trao cuộc
sống của họ cho tha nhân: “Đây là Giao ước mới, các con hãy làm việc này
(bữa ăn) để nhớ đến ta.”[33] Vậy nên, điểm
quan trọng mà chúng tôi muốn nhấn mạnh nơi đây, đó chính là sự việc tại sao đức
Kitô lấy bữa ăn, lấy bánh, lấy rượu chứ không phải như các bậc đế vương lấy
những đồ qúy gía, lấy quyền uy làm biểu tượng cho chính cuộc sống của
Ngài.
Theo tập tục Việt, khi viếng thăm ai, chúng
ta đều mang theo quà cáp. Nhưng khác với người Âu Mỹ, và có lẽ cả với người
Tầu,[34] người Việt chúng
ta thường hay biếu hay tặng những món ăn, hay hoa trái mà chúng ta tự nấu hay tự
trồng cấy, gọi là “cây nhà lá vườn,” hay
“cơm mắm cơm muối.” Đây là một tập tục đã có ngay vào thời khai quốc, và rất gần
với tập tục con người qua câu truyện hai anh em Cain và Abel. Câu truyện bánh
giầy bánh chưng nói lên sự kiện, chính vì hiểu được ý nghĩa của ăn uống mà cậu
hoàng tử em mới được vua cha truyền ngôi báu. Rồi bánh giầy không chỉ tượng
trưng cho trời, bánh chưng không chỉ cho đất mà thôi, mà còn nói lên ý nghĩa
“đầy đủ” hay “mãn nguyện”: “mẹ tròn con vuông.”[35] Nhưng quan trọng
hơn cả, đó là, bánh giầy bánh chưng làm bằng gạo, vốn là nguồn sống của dân
Việt. Người nhận ra được ý nghĩa của cuộc sống Việt là người xứng đáng được
chọn làm đại diện dòng Việt. Nhân thoại này phản ánh rất trung thực tâm tình
người Việt: “dĩ thực vi tiên” hay “có thực mới vực được đạo” cũng như “ý dân là
ý Trời.”
Thứ
tới, bữa ăn nói lên tâm tình mật thiết. Vợ chồng khi động phòng phải ăn
phải uống một cách tượng trưng. Đám cỗ, tức bữa ăn long trọng dịp cưới
hỏi, ta phải ăn. Đám giỗ, dịp tưởng nhớ, ta càng phải ăn. Và các
loại tiệc, tức khao, đãi, ta cũng phải ăn, phải uống. Người “Nam
kỳ” chỉ nhậu khi có bạn qúy. Bạn càng qúy, nhậu càng say. Nhậu chết bỏ! Người
“Bắc kỳ” thường để dành món ăn quý nhất chia sẻ với bạn hữu, với khách qúy, hay
cho con cái. Họ tự nhịn ăn, nhịn tiêu. Nhưng lại rất rộng rãi với những người họ
yêu, hay qúy trọng.[36]
Mà qủa
thế, ta thường rất cảm động khi người hàng xóm bưng bát canh hay một món ăn mà
họ vừa nấu và cho là đắc ý qua tặng. Ta nhận thấy nơi họ một tâm tình thân thiết
như thể là người trong gia đình. Ta cũng thường thấy cha mẹ chúng ta để dành
những món ăn ngon cho khách, cho những người qúy trọng, cho con cái. Ta cũng
thấy người giáo dân Việt dâng tặng các bậc tu sỹ đáng kính những món ăn, những
hoa trái, hay những gì mà họ cho là qúy.[37] Nói tóm lại,
chính sự kiện tặng đồ ăn thức uống nói lên tâm tình đích thực, cuộc sống đích
thực của người Việt. Đồ ăn thức uống được coi như là biểu tượng của tâm tình
chân thật nhất, của chính sự sống, và của chính sinh mệnh.[38]
Ta
cũng nhớ lại thời thơ ấu, khi mà chỉ những bạn bè “nối khố” mới chia nhau từng
miếng ăn, từng ly rượu, từng mẩu thuốc, và chung chạ quần áo nữa. Sự việc “ăn
nằm” chung, “ăn mặc” chung, “ăn chơi” chung, ”ăn uống” chung, “ăn học” chung,
”ăn ở” chung (và có lẽ cả “ăn bậy” chung, “ăn tục”chung như thấy nơi những người
sống ngoài lề luật) nói lên một cách rất rõ ràng tình cảm sâu đậm giữa hai
người, hay một nhóm người.[39] Và đây là một đặc
tính của dân Việt. Chúng ta chia sẻ miếng cơm (bất cứ ai là khách, đến vào giờ
cơm, đều được mời ăn, chỉ cần thêm bát thêm đũa), chia sẻ manh áo, chia sẻ cả
chỗ ngủ, gác chân lên nhau khi ngủ… Một điều mà họa hiếm mới thấy nơi các dân
tộc khác.[40]
Từ
những nhận định trên về cách ăn cách sống của người Việt, ta dễ dàng nhận ra
được sứ điệp chính yếu của mầu nhiệm Thánh Thể. Mầu nhiệm này chẳng có huyền bí.
Mầu nhiệm không phải vì qua mô thức (truyền phép) cố định mà một sự vật tự biến
đổi trạng thái: bánh thành thịt và rượu thành máu. Mầu nhiệm là Mầu nhiệm
bởi vì phát sinh sự sống (Truyện Bánh Giầy Bánh Chưng), bởi vì phát sinh tình
người (Truyện Trầu Cau), và bởi vì là biểu hiệu tính chất linh thiêng của con
người. Đây chính là điều mà chúng ta thấy nơi đức Kitô. Ngài đã chọn một bữa
tiệc để giã biệt những người mà Ngài yêu thương. Qua bữa ăn, qua thức ăn và thức
uống, Ngài đã tỏ ra cái tình yêu của Ngài cho họ, và cho nhân loại. Qua sự kiện
phân phát lương thực cho mọi người, Ngài muốn nói lên cái tình chung. Qua việc
trao cho chúng ta chính miếng bánh mà Ngài đang ăn, nhấp rượu mà Ngài đang uống,
ta nhận ra tình yêu đích thực của Ngài chính là việc Ngài trao cho con người
chính sự sống của Ngài.
Đại
Học Salzburg
Lễ
Thánh Thể, 26
tháng 5 năm 2005
MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO
Như
trong các bài viết khác về Việt Triết, Việt Thần, văn hóa Việt, người viết cố
ý không liệt kê thư tịch do các học gỉa ngoại quốc biên soạn. Không phải vì
các tác phẩm của họ không có gía trị, hay không ảnh hưởng tới bài viết này.
Ngược lại, trong qúa trình học tập, chúng tôi đã học từ nhiều người, nhiều nơi
và nhiều văn hóa khác nhau. Những nghiên cứu của Lévi-Strauss (Le Cru et le
cuit), của Clifford Geertz (The Interpretation of Culture) và nhiều
nhà khảo cổ, nhân chủng học có nhiều điểm đáng chú ý. Bạn đọc có thể thấy trong
nhiều chú thích của bài viết. Riêng về Nhật Bản và Trung Hoa, có khá nhiều tác
phẩm bàn về triết lý ăn uống của họ, trong đó có nhiều điểm tương đồng vớI lối
ăn Việt. Việc trích các thư mục học gỉa Việt biên soạn là do sự tự trọng, và
lòng tôn trọng cũng như cổ súy họ.
Đào
Duy Anh, Việt Nam Văn Hóa Sử Cương. Tái bản. Sài Gòn: Nxb Bốn
Phương, 1951.
Toan
Ánh, Phong Tục Việt Nam. Tái bản. TphHồ Chí Minh: Nxb Đồng Tháp.
1998.
Vũ
Bằng, Miếng Ngon Hà Nội. Nam Chi Tùng Thư,
1966.
Phan
Kế Bính, Việt Nam Phong Tục (Đông Dương Tạp Chí,
1914-1915). Tái bản: Phong Tục Việt Nam. Sài Gòn 1957
(?).
Xuân
Huy (sưu tầm và giới thiệu), Văn Hóa Ẩm Thực và Món Ăn Việt Nam,
bản thứ hai. Tph HCM: Nxb Trẻ, 2004.
Vũ
Ngọc Khánh, Hành Trình vào Thế Giới Folklore Việt Nam, Hà Nội: Nxb
Thanh Niên, 2003.
Thạch
Lam, Hà Nội Ba Sáu Phố Phường. Sài Gòn: Phượng Giang,
1959.
Hồng
Kim Linh, Người Nhật Dưới Mắt Người Việt. Tokyo-Paris, 1995.
Hồng
Kim Linh, Người Việt. California: Hồng Lĩnh,
1997.
Phan
Ngọc, Một Cách Tiếp Cận Văn Hóa. Hà Nội: nxb Thanh Niên,
2000.
Vương
Hồng Sển, Thú Ăn Chơi. Sài Gòn, 1967 (?)
Trần
Ngọc Thêm, Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam. Tph Hồ Chí Minh: Nxb Đại Học
Tổng Hợp, 1995.
Trần
Ngọc Thêm, Tìm Về Bản sắc Văn Hóa Việt Nam. Bản thứ ba. Tph Hồ Chí
Minh: Nxb Tph HCH, 2003.
Trần
Quốc Vượng, Tiếp Cận Văn Hóa Việt Nam – Tìm Tòi và Suy Gẫm. Hà
Nội: Nxb Văn Hóa Dân Tộc, 2000.
Ngoài
ra các bài viết tuyển chọn trong
Xuân
Huy, Văn Hóa Ẩm Thực và Các Món Ăn Việt Nam. Sau đây: Xuân
Huy.
- Đào
Duy Anh, “Phong Tục Ăn Uống của Người Việt.” Trong Việt Nam Văn Hóa Sử
Cương. Nxb Bốn Phương, 1961. Xuân Huy, ctr. 13-15.
- Phan
Kế Bính, “Cách Ẩm Thực của Người Việt.” Trong Việt Nam Phong Tục.
Xuân Huy, ctr. 16-18.
- Trương
Chính, “Đặc Điểm Ăn Uống của Người Việt.” Trong Sổ Tay Văn Hóa Việt
Nam. Nxb Văn Hóa, 1978. Xuân Huy, ctr. 26-29.
- Trần
Văn Khê, “Bàn Về Nghệ Thuật Nấu Bếp và Ăn Uống của Người Việt.” Trong Tạp
chí Du Lịch Tph Hồ Chí Minh, số 88 (10.1998). Xuân Huy, ctr.
19-25.
- Đặng
Nghiêm Vạn, “Sự Tinh Tế trong Chế Biến Món Ăn của Người Việt.” Trong Tạp
Chí Văn Hoá Nghệ Thuật Ăn Uống, số 4 (2. 1998). Xuân Huy, ctr.
45-49.
- Lưu
Văn, “Quan Niệm về Miếng Ăn qua Ca Dao Tục Ngữ.” Trong Tạp chí Tiến
Thủ, số 15 (Xuân Nhâm Dần, 1963). Xuân Huy, ctr.
58-73.
☆ Trần Văn Đoàn. Giáo Sư Triết Học, Đại Học Quốc Gia
Đài Loan (Đài Bắc). Hiện là Giáo sư Thỉnh Giảng tại Viện Thần Học, ĐH
Salzburg (Áo) và Viện Kinh Tế Quản Trị, ĐH Thanh Hoa (Bắc Kinh). Nghiên
Cứu Viên (Research-Fellow) Viện Con Người (Hà Nội, Việt Nam), Viện
Tinh Thần Quốc Gia (Vũ Hán, Trung Quốc) và Max-Planck Institut
(Starnberg, Đức).
[1] Những nghiên cứu khảo
cổ nhân chủng của E.E. Evans-Pritchard, Bronislav Malinowski, Claude
Lévi-Strauss, Clifford Geertz, vân vân, đều nói lên tầm quan trọng của ăn uống,
lễ vật, vân vân, trong sinh hoạt tôn giáo, xã hội của những xã hội sơ khai. Xin
tkh. Claude Lévi-Strauss, Le Cru et le cuit (Paris: Plon, 1964). Nhà văn
Nguyễn Tuân, một người nổi tiếng về nghệ thuật ăn, nhận định tương tự: “Trong
một miếng ăn cũng thấy rộng được ra những điều cao cả yên vui trên đất nước giầu
có tươi đẹp.” Nguyễn Tuân, “Phở”, trong Văn Hoá Ẩm Thực và Món Ăn Việt
Nam, do Xuân Huy sưu tầm, giới thiệu (Tph Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ, 2004), tái
bản, tr. 338. Sau đây viết tắt là Xuân Huy.
[2] Các từ thông dụng
như ăn uống, ăn chơi, ăn nằm, ăn mặc, ăn ỉa, ăn nói, ăn nghỉ, ăn ngủ… thực ra
luôn bao gồm hai động tác: ăn/uống, ăn/chơi, ăn/nằm, ăn/ỉa, ăn/nói, ăn/nghỉ ,
ăn/ngủ... Điểm đáng suy nghĩ, đó là tại sao người Việt luôn bắt đầu với tác động
ăn, chứ không ngược lại như nằm ăn, ngủ ăn, ỉa ăn, uống ăn, chơi ăn, vân vân.
Sau nữa, ý nghĩa của ăn nằm, ăn ở … không dừng nơi tác động ăn và ở, ăn và nằm…
nhưng chỉ ra một sinh hoạt mang tính chất toàn diện hơn. Ăn ở tương đương với to
(co)live, ăn nằm (ăn ngủ) với to (co) habitate, to (inti)mate, ăn uống với to
feed, ăn chơi với to enjoy, vân vân.
[3] Xin tkh. Trần Văn
Đoàn, Essays on Asian Philosophy and Religions (Washington, D.C.: The
Council for Research in Values and Philosophy, 2005); Trần Văn Đoàn, Những
Suy Tư Về Thần Học Việt Nam (Washington, D.C.: Vietnam University Press,
đương ấn hành); Trần Văn Đoàn, Towards a Pluralistic Culture. Washington,
D.C.: The Councilf for Research in Values and Philosophy, 2005. Ngoài ra: Trần
Văn Đoàn, Việt Triết Luận Tập I (Washington, D.C.: Vietnam University
Press, 200).
[4] Tác gỉa Lưu Văn,
trong bài “Quan Niệm về Miếng Ăn qua Cao Dao Tục Ngữ,” đă ng trên Tạp chí
Tiến Thủ, số 15 (Xuân Nhâm Dần 1963), từng viết về “Miếng Ăn hay là Triết
Lý của Cuộc Đời.” Trích từ Xuân Hy, ctr. 68-69.
[5] Đạo nơi đây
theo nghĩa nguyên lý, quy tắc và phương thế hay cách thế.
Người Nhật có đạo uống chè (chè đạo), đạo tu tâm (thiền đạo), đạo kiếm (kiếm
đạo). Trong võ thuật, ta có nhu đạo (yếu thắng mạnh), thái cực đạo (vận động
theo theo thái cực), vân vân. Người Tầu hiểu đạo theo nghĩa rộng hơn:
Thiên đạo, Địa đạo, nhân đạo, vật đạo, sư đạo, phụ đạo, quân đạo. Bất cứ cái gì
cũng có đạo lý của nó.
[6] Tất cả những câu
ca dao, tục ngữ trích dẫn trong bài này, đều dựa theo Xuân Huy, Phần Phụ Lục 1,
ctr. 775-814.
[7] Thực sự mà nói,
trong một xã hội đóng kín, những câu truyện trào phúng, những nụ cười dí dỏm,
vân vân, phản ánh trung thực hơn là những câu văn sáo ngữ của giới học thức, chỉ
biết “dùi mài kinh sử” và luyện tập “văn hay chữ tốt.” Những vần thơ của Hồ Xuân
Hương, Cao Bá Quát, rồi vào đầu thế kỷ 20, những câu thơ của Tú Xương, Tản Đà,
và gần đây hơn, của Phùng Quán và nhóm Bút Tre nói lên được cái mặt thật xã
hội nhiều hơn là những “áng” thơ gọt dũa nội dung trống rỗng hay đầy mùi vị
nịnh hót của Tố Hữu. Ca dao, tục ngữ, đồng dao, vân vân, thực ra là những vần
thơ mộc mạc phản ánh những lối suy tư, ưu tư, hay những phương thế đối xử mà ta
không thấy (hay họa hiếm thấy) trong quốc luật, hình luật, hay trong những sách
giáo khoa, đạo đức, vân vân. Câu ca dao trào phúng “nhất sỹ nhì nông, hết gạo
chạy rông, nhất nông nhì sỹ” nói lên cái thực tại mâu thuẫn của xã hội giai cấp
Việt trong qúa khứ.
[8] Lẽ tất nhiên cũng
là nỗi khổ (vay mượn tiền để khao đãi), nỗi đau (bị khinh vì chưa
khao đãi cho đủ), nỗi nhục (không có tiền khao đãi) của người lê dân
nghèo túng. Tự Lực Văn Đoàn từng cực đả phá những thói tục khao đãi này. “Miếng
ăn là miếng nhục” chỉ ra được ý thức của người Việt về sự nô lệ của con ngườI
vào miếng cơm manh áo.
[9] Ngay cả nền văn
hóa Hoa, tuy rất gần với Việt, và tuy rất chú trọng ăn uống, họ cũng không có
những tập tục như người Việt. Giỗ đối với họ không quan trọng lắm, và ít khi có
ăn uống. Ma chay cũng ít có ăn uống, trừ bữa cơm nhạt cho những người đến giúp
việc. Ngày nay, đỗ đạt, thăng quan tiến chức cũng có khao đãi, nhưng chỉ giữa
nhóm bạn thân hay gia quyến. Ít khi thấy kiểu khao cả làng, cả xã, cả tổng như ở
Việt Nam.
[10] Lẽ dĩ nhiên, đã
có một thời, “tranh dành xôi thịt” vốn là một biểu tượng của tranh chấp quyền
bính, tiền bạc. Người Việt coi đó là một tệ hại chứ không phải là một phong tục.
Họ dùng từ “bọn” như “bọn cướp,” “bọn du thử du thực,” để chỉ những kẻ “xôi
thịt”: bọn tham ăn, bọn tham ô, bọn tham nhũng, bọn tham quan ô lại, bọn nọ bọn
kia, vân vân.
[11] Tục lệ các cụ khi
dự tiệc ở đình, thường ăn qua loa lấy lệ. Nhưng sau bữa tiệc, các cụ thường có
phần đem về chia cho con cháu, gọi là lấy “lộc thánh.” Cụ nào mà không được mời
dự tiệc, tự coi là một nỗi ô nhục. Chỉ những kẻ phạm pháp, hay người qúa nghèo
túng không nộp sưu, nộp thuế, hay thuộc giai cấp thấp hèn, mới không được mời.
Xin tkh. Toan Ánh, Phong Tục Việt Nam, Tập 1 (Tph Hồ Chí Minh: Nxb Tổng
Hợp Đồng Tháp, 1998). Trần Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam - Tìm Tòi và Suy
Ngẫm, (Hà Nội:Nxb Văn Hóa Dân Tộc, 2000), tr.398.
[12] Rất có thể sẽ có
nhiều độc gỉa không đồng ý, phê bình lối nhìn của chúng tôi như là “lý tưởng hóa
nhược điểm.” (Xem bài của Ratzenberg trên Talawas). Tôi không lý tưởng hóa,
nhưng chỉ mô tả cái lối suy tư của người Việt. Những tệ hại, tệ đoan, cho dù có
được lý tưởng hóa tơí đâu, vẫn là tệ hại. Người Việt, y hệt như bất cứ ai, cũng
có rất nhiều tệ hại, nhưng họ không coi chúng là lẽ tất nhiên.
[13] Nạn cướp bóc của
Hồng quân Liên Sô khi chiếm đóng Đông Âu, rồi tệ nạn ăn cướp công khai của đạo
quân Lữ Hán khi sang Việt Nam tiếp thu Nhật đầu hàng, y hệt như nạn mãi dâm tại
Âu châu sau thế chiến thứ II, cũng như những tệ nạn trong vùng chiến tranh, hay
nội chiến ở Phi Châu, Nam Mỹ là những ví dụ điển hình. Người Việt có nạn cắp,
nạn trộm. Nhưng người ăn cắp, ăn trộm vẫn biết mình là đê tiện. Họ vẫn theo cái
“đạo” của “đạo chích”: không giết người hay uy hiếp nạn nhân, không ăn trộm
người nghèo, không hãm hiếp phụ nữ, không tranh dành lẫn nhau, gặp chủ nhả phải
tránh, vân vân. Theo nhiều người kể lại, dân vùng Nam Định, vào thời điểm khốn
khổ bị nạn chết đói hoành hành (1945), những người qúa đói có ăn cắp, dựt đồ ăn
cho họ, và cho con cái họ. Nhưng khi bị đánh, họ nhẫn nhục chịu đòn, không kêu
ca, hay không trả đòn. Trong lịch sử Việt, chúng ta chưa thấy (hay họa hiếm
thấy) bọn trộm cắp lên làm vua làm chúa, hay biến thành những nhân vật quan
trọng như bọn Mafia bên Mỹ, bên Ý, bọn buôn lậu cần sa ở vùng Nam Mỹ, và ngay cả
bọn “hắc đạo” ở Hương Cảng, Đài Loan và Nhật. Bạn đọc có thể nghi ngờ và đặt câu
hỏi về “nạn tham nhũng,” “tham quan ô lại” tức những người có quyền thế ngang
nhiên ăn cắp của dân, mà vào thời đại nào cũng có. Bọn người này không phải là
bọn trộm cắp lên làm quan, mà ngược lại, làm quan rồi mới sinh đạo tặc: No cơm
ấm cật dâm dật mọi nơi. Nhiều người trước khi có quyền hành, rất thanh liêm, rất
khiêm nhượng, rất lý tưởng. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, họ biến thành bạo
quân, tham quan ô lại, đúng như quận tước Acton (Lord Acton) trong một lá thư
gửi Giám mục Mandell Creighton, 1887, từng viết, “Tất cả mọi loại quyền hành đều
dễ đưa con người đến phủ bại. Quyền hành tuyệt đối làm con người phủ bại hoàn
toàn.”
[14] Hiện tượng mãi
dâm ở Việt Nam, có lẽ không hoàn toàn giống nạn mãi dâm ở các nước Âu Mỹ. Thống
kê của các nhà nghiên cứu xã hội cho biết, tuyệt đại đa số nạn mãi dâm ở
Việt nam là vì hoàn cảnh, hay bị lừa dối, chứ không phải tự ý, hay vì nhu cầu
hay ý thích cá nhân -- Ở Mỹ, đa số do nhu cầu tiêu dùng cá nhân, hay vì bị xã
hội lôi cuốn. Ở nước Ý, có khá nhiều gái mãi dâm tốt nghiệp đại học, lại có cả
bằng tiến sỹ. Có người được bầu làm dân biểu. Tại Tph. HCM, đa số các người hành
nghề mãi dâm đến từ vùng nông thôn nghèo đói. Ngược lại, những người Nga hành
nghề mãi dâm ở Nhật, Đài Loan…đa số tốt nghiệp đại học, và là dân thành thị. Ta
có thể nói, người Việt chấp nhận nhục nhã, hy sinh, với mục đích nuôi gia đình.
Những năm đầu, họ thường dành dụm tiền bạc gửi về quê nuôi cha mẹ, giúp các em
ăn học. Tương tự, hiện tượng làm thuê, công nhân nước ngoài cũng là do hoàn cảnh
gia đình. Có khá nhiều phụ nữ đã hai ba con, vẫn phải gạt nước mắt đi ở đợ, lấy
tiền gửi về phụng dưỡng cha mẹ, nuôi con, giúp chồng. Nhiều phụ nữ Việt lao động
tại Đài Loan bị chủ, hay mô giới làm nhục, nhưng họ vẫn nhẫn nhục “ăn cực ăn
khổ,” “ăn cay nuốt đắng” và tiếp tục công việc. Họ hy sinh chính mình cho gia
đình họ nơi quê nhà.
[15] Những tiểu thuyết
của Vũ Trọng Phụng như Số Đỏ, Làm Đĩ, vân vân, của Ngô Tất Tố như
Tắt Đèn… mục đích chính yếu nhắm chê cười cái xã hội thối nát bị thiểu số
lũng đoạn. Bọn người này tượng trưng cho hiện tượng “ăn bẩn,” “ăn tham,” “ăn
bám,” “ăn chơi,” “ăn trên ngồi chốc,” “ăn cháo đá bát,” “ăn bịp,” “ăn trộm,” “ăn
chịu,” “ăn chung nằm chạ,” “ăn chực,” “ăn đòi,” “ăn đợ,” “ăn hôi,” “ăn quỵt,”
“ăn vơ,” “ăn vét,” vân vân.
[16] Trần Ngọc Thêm,
Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam (Tph Hồ Chí Minh: Đại Học Tổng Hợp Tph HCM,
1995).
[17] Xin tkh. Băng
Sơn, “Chiếc Mâm” trong Văn Hóa Nghệ Thuật Ăn Uống, số 5 (03.1998). Tái in
trong Xuân Huy, ctr. 130-133
[18] Để diễn tả tính
chất cộng thông này, người Việt có những từ như đồng niêu (đồng nồi).
Trong văn hóa Hoa, Nhật… ta không thấy chữ đồng niêu. Chỉ có những từ (cũng thấy
nơi ngôn ngữ Việt) như đồng học, đồng hiệu, đồng hệ, đồng chí, đồng bào, đồng
tộc, đồng nhân, đồng giống (chủng, loại)… Tương tự, trong văn hóa Tây phương, họ
cũng có những từ biểu tả hành vi tương thông như cộng sản (communism) đồng chí
(comrade), cộng đoàn (community), cộng thông (communion), khu tập thể
(condominium), vân vân. Nhưng tuyệt không thấy từ đồng niêu (nồi).
[19] Băng Sơn, bđd.,
tr. 131.
[20] Trần Ngọc Thêm,
sđd.. trong Xuân Huy, tr. 39.
[21] Độc gỉa có thể
tham khảo cái nghiên cứu của các học gỉa Việt, đặc biệt Tiến sỹ Vũ Đình Trác,
Giáo sư Trần Ngọc Thêm, Giáo sư Trần Quốc Vượng… Trong loạt bài đăng trên Hội
Hữu (Tạp chí này ra được 4 số, Garden Grove, 1988-1991), Tiến sỹ họ Vũ đã kê
khai một bảng về các chất liệu, tính âm hay dương của chúng, và chất liệu nào
phù hợp với chất liệu nào để tạo thành âm dương hiệp nhất. Theo Vũ tiên sinh, lý
thuyết ẩm thực này hoàn toàn phù hợp với đông y. Vũ Đình Trác, Một Trăm Cây
Thuốc Vạn Linh (Garden Grove: Hội Hữu, 1986).
[22] Trần Quốc Vượng
tán đồng Tản Đà khi cho rằng, ăn uống mang 4 điều kiện: nơi ăn, người ăn, món ăn
và thời điểm ăn. Chủ trương như vậy, họ nhận ra bản chất của ăn uống là tồn tại,
vui thú. Ăn uống đồng thời cũng biểu tả tính chất cộng đồng xã hội và cá tính.
Xin tkh. Trần Quốc Vượng, “Trò Truyện về Bếp Núc và Văn Hóa Ẩm Thực Việt Nam,”
trong Văn Hoá Việt Nam Tìm Tòi và Suy Ngẫm, sđd. , tr. 383.
[23] Hợp với nhau như:
hành với thịt lợn, riềng cho thịt chó, lá chanh với thịt gà: “Con gà cục tác lá
chanh / Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi / Con chó khóc đứng khóc ngồi / Mẹ ơi đi
chợ mua tôi đồng riềng.” Không hợp: kinh giớI không thể ăn vớI thịt gà, và thịt
ba ba tuyệt đối không được nấu vớiI rau dền.
[24] Những món ăn ngon
và dân gĩa nhất đều có mùi thơm tạo ra từ sự hòa hợp của nhiều vị. Thí dụ món mề
gà, món lòng lợn, phao câu, hay dồi lợn, dồi chó, vân vân, vốn không có thơm tho
gì. Nhưng qua cách nấu nướng, thêm gia vị, đặc biệt qua sự hòa hợp với chất liệu
khác (thị chó với riềng, lá mơ), các món này trở lên rất thơm. Tương tự, mùi rất
“thối” của trái sầu riêng (durian), nếu được thêm vào vớI rượu wishky hay
cognac, sẽ biến thành một món ăn rất quyến rũ, độc đáo (theo Nguyễn
Tuân)..
[25] Một món ăn thiếu
tính chất hòa hợp sẽ khó nuốt, mùi vị “quái lạ.” Thế nên các đầu bếp Việt ai
cũng biết: “thịt gà kinh giới, ba ba rau dền.”
[26] Toan Ánh, sđd.,
ctr. 30-32.
[27] Những loạI mắm
nổi tiếng phải kể đến “Mắm Nhum” (ở Quảng Trị), mắm Huế, rồi mắm cá thu (Nha
Trang)
[28] Đa số các vị sành
ăn (Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng, Toan Anh) cho rằng phở vốn là sự cải biến
từ bún Tầu gọi là “ngưu nhục phấn.” Riêng ông Nguyễn Đình Rao (chủ tịch Câu Lạc
Bộ Ẩm Thực UNESCO Hà Nội) chủ trương cái nôi của phở tại Nam Định, do một nhóm
công nhân Việt, Pháp phát minh để ăn thay thế bún hay cháo. Ông nói: “Phở là sự
kết hợp giao thoa văn hóa với các thành phần bản địa, hương vị truyền thống kết
hợp vớI thị hiếu châu Âu. Tất cả cho ra một món ăn mang tính chất toàn cầu.” Từ
Yên Ba, “Phở như một Di Sản,”Heritage Fashion (Dec 2004 – Jan. 2005), tr.
98.
[29] Yên Ba, Theo Yên
Ba, bđd., tr. 98, khóa hội thảo “Di Sản Việt Nam: Phở” được tổ chức tại khách
sạn Sofitel Metropole, Hà Nội (2002) đã chọn ra 80 hàng phở ở Hà NộI tiêu biểu
nhất, và đánh dấu trên bản đồ, gọi là bản đồ phở.
[30] Trần Văn Đoàn,
Việt Triết Luận Tập I, sđd. chương 3.
[31] Từ phép mà
chúng ta thường dùng mang tính chất huyền bí, thí dụ phép lạ. Thế nên khi dùng
từ phép vào các bí tích như phép Thánh Thể, phép Rửa Tội, phép Thêm Sức…rất dễ
khiến ta hiểu lầm, coi nghi thức lập lại bữa tiệc ly như là “làm phép” biến bánh
thành thân xác, biến rượu thành máu đức Kitô, giống như các nhà phù thủy, hay
những nhà ma thuật đương “làm phép” biến cái nọ thành cái kia. Trong ngôn ngữ
Giáo hội, từ sacramentum (mà chúng ta dịch là bí tích) thực ra không có
bí (huyền bí) tí nào. Chính vì hiếu là huyền bí, nên chúng ta mới dùng thuật ngữ
phép. Thực ra sacramentum muốn nói lên tính chất quan trọng tất
yếu. Không ăn thì không thể sống (Thánh Thể); không đức tin, thì không thể
có Chúa (Thêm Sức), không hôn nhân thì không có con người (hôn nhân), không hối
tội thì không có tha thứ (Giải tội), không sinh ra thì không có sự sống
(Baptismus, ta dịch là Rửa Tội, thực ra là có một cuộc sống mới), vân
vân.
[32] Sự việc giải
thích tác động bẻ bánh, phân phát cho các môn đệ, rót rượu chia cho các ông như
là một phép, rồì những lời tâm tình đức Kitô trối trăn cho môn đệ như là
một mô thức, mà qua mô thức đó, ta có thể biến đổi một trạng thái, một sự
vật, thực ra là do ảnh hưởng của văn hóa Hy La và có lẽ cả của Á Rập. Các thần
thoại của Homer, rồi các thần thoại chung của các nền văn hóa này đều mang tính
chất ma thuật. Trong lối dịch thần học Việt, ta thấy có những từ như
phép, bí tích, nhiệm tích… tất cả đều nói lên tính chất
huyền bí, và cho ngườI ngoài Kitô giáo có cảm tưởng như là thần chú trong câu
chuyện Tây Du Ký.
[33] Lối hiểu thần học
theo Công Đồng Tridentino cho rằng qua phép Thánh Thể, đức Kitô tiếp tục ban
phát thân thể Ngài cho chúng ta. Qua nghi thức “truyền phép,” bánh biến thành
thánh thể, rượu biến thành thánh huyết.
[34] Ngày nay, người
Âu Mỹ thường tặng những nghệ phẩm, hay nhưng gì mang tính chất lịch sử, thẩm mỹ,
trong khi người Tầu vẫn còn thói quen tặng tiền mặt hay vàng bạc (hồng bao,
vv.). Lẽ tất nhiên nơi vùng thôn quê, việc tặng một chiếc bánh, hay thit ướp
muối, hay phó mát vẫn còn thấy ngày nay. Nhưng nó không mang tính chất thông lệ
như nơi ngườI Việt.
[35] Xin tkh. Kim
Định, Kinh Hùng Khải Triết (Houston: An Việt, 1987), Truyện “Bánh Giày
Bánh Chưng”.
[36] Trong các xứ đạo
miền Bắc, hay người Bắc toàn tòng như vùng Hố Nai, Gia Kiệm, Bảo Lộc, giáo dân
thường biếu cha xứ hay hàng linh mục những món ăn qúy, thức ăn mới lạ. Của ngon
vật lạ vẫn là quà biếu chính yếu của người Việt hiện nay. Trong các côộg đồng
Phật giáo Việt, ta cũng thấy những mỹ tục tương tự. Tín đồ tặng thức ăn hay hoa
trái cho các sư sãi tăng ni. Ơ Đài Loan, tín đồ tặng tiền chứ không thấy tặng
thức ăn. Ngay cả khi đi cúng chùa. Sau khi cúng, Phật tử thường đem hoa trái đã
cúng về nhà để ăn.
[37] Tại Việt Nam
trước 1975, tập tục dâng những món ăn hay những gì qúy cho các nhà sư, các linh
mục thường hay bị lạm dụng. Nhiều vị đã coi đó là bổn phận tất nhiên của
tín đồ, hay giáo dân. Ít khi thấy có lời cám ơn, hay tặng quà lại cho giáo dân.
Có lẽ, các vị nghĩ, cầu nguyện cho tín đồ là đủ, vì “của lễ vô giá.” Tôi đã từng
nghe một câu chuyện có thực về việc một “cha xứ” nọ. Trước 1975, ông coi việc
giáo dân biếu xén là một phép tắc tất nhiên. Thế nên, ai đến cũng phải có
lễ, và đồ lễ phải xứng đáng với chức thánh của ông. Ông từng vất ký thịt
heo người giáo dân tặng ra sân, vì thịt “không tươi.” Tôi cũng chính mắt chứng
kiến cha xứ của tôi, từ chối làm lễ giỗ cho người con mới tử trận của một bà cụ
già, vì “tiền lễ qúa ít.” Lý do tôi nghe thấy nơi miệng của ông, đó là “đã có
người xin lễ vào ngày…ấy. Nếu muốn, thì phải đợi đến năm sau.”
[38] Trong các xứ đạo,
và ngay trong cộng đồng của Phật tử và các tôn giáo Việt khác, ta cũng thường
thấy người tín đồ nhịn ăn đôi chút để bố thí. Thân mẫu tôi cũng như những người
hàng xóm, tuy rất nghèo, nhưng bất cứ người ăn mày nào ghé qua, ai ai cũng cho
họ một bát gạo.
[39] Xin đừng hiểu
nhầm với “ăn chung nằm chạ,” tức ăn nằm với bất cứ ai mà ta không yêu, không
thích, và ngoài luân thường. Điều mà người Việt cho là vô luân.
[40] Câu chuyện thực
hư về Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đến thăm Giám mục Lê Hữu Từ (20.12.1947), sau bữa
trưa, đã nằm gác chân bên cạnh cụ Giám mục họ Lê để trò truyện… nói lên việc nhà
lãnh đạo chính trị muốn tỏ mối thân thiện với nhà lãnh đạo công giáo. Xin tkh.
Lữ Giang, Những Bí Ẩn Đàng Sau Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam (Garden
Grơve, 1994), ctr. 184-85.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét